Chuyển tới nội dung

Dòng sông tâm thức: Bát Nhã tâm kinh

Bát Nhã Tâm kinh (BNTK) là một kinh chỉ có 260 chữ, nhưng các bài viết giảng về kinh nầy, phê bình dẫn giãi sửa đổi nhiều hơn 260000 chữ trong hiện tại ngày nay. Điều đó nói lên tầm quan trọng của BNTK trong đạo Phật. Bất kỳ nơi nào đều tụng BNTK sau một thời ngồi thiền hay làm lễ hay các đám tang. BNTK mang tính chất như là một trí tuệ, như một kết luận kêu gọi hành giã đi đến sự giác ngộ hay một thần chú diệt trừ ma quỷ. Vậy BNTK là gì và tụng kinh Bát Nhã này ích lợi gì có giúp ta ngộ đạo hay không? Vì có quá nhiều bài viết về BNTK nên chúng ta chỉ gom tụ lại những điều cốt lỏi như văn tự Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã, thật tướng Bát Nhã. Thường các kinh được viết ra là ghi lại lời Phật dạy nhưng có BNTK không phải là kinh Phật nói và Pháp bảo đàn kinh là kinh do tổ Huệ năng nói. Hai kinh nầy rất thông dụng nhưng không phải do Phật nói.

Dòng sông tâm thức: Bát Nhã tâm kinh
Bát nhã tâm kinh mang tính chất như là một trí tuệ, như một kết luận kêu gọi hành giã đi đến sự giác ngộ hay một thần chú diệt trừ ma quỷ

Nguồn gốc Bát nhã tâm kinh

Bản Maha Prajnaparamita Hridaya Sutra tiếng Phạn được ngài Huyền Trang đời Ðường sang Ấn Ðộ thỉnh về, rồi dịch sang tiếng Trung Hoa năm 649, tại chùa Từ Ân. Hiện nay, còn lại 2 bản Bát Nhã Tâm Kinh, một bản “dài” bằng tiếng Tây Tạng và một bản “ngắn” bằng tiếng Trung Hoa. Bản chúng ta vẫn thường dùng tại Việt Nam là bản “ngắn” bằng tiếng Hán (gồm có 260 chữ), gần đây đã được dịch sang tiếng Việt trong những nghi thức tụng niệm. Ai là người nói ra kinh này thì không được biết chắc chắn. Nhưng chúng ta suy luận là đạo Phật là một tôn giáo, cần có đức tin. Đã tin là có một loạt Bồ Tát tu tập với hạnh nguyện là ở lại cõi ta bà này mà giúp đỡ chúng sanh với lòng từ bi. Ngoài biển khơi biết bao trường hợp đã khấn nguyện Bồ Tát Quán Âm giúp chống được bão tố hay thuyền chết máy hết xăng dầu. Nếu có Bồ Tát Quán Âm giúp người thoát nạn giông bão ngoài khơi thì câu chuyện Bồ Tát Quán Âm giúp ngài Huyền Trang đi sang Ấn Độ thỉnh kinh, qua sa mạc Gobi là chuyện có thể là thực. Truyền thuyết này logic vì Bát Nhã Tâm kinh với câu vào đầu là Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã ba la mật đa tức là Quán Thế Âm Bồ Tát là thật, người đã hiện thân thành kẻ ăn xin giúp cho Huyền Trang 260 chữ BNTK nầy. Để rồi Huyền Trang đã mang ra đọc khi đêm tối bị ma quỷ phá và bão cát sa mạc vùi lấp ngài. Khi sang đến được Ấn Độ, Ngài Huyền Trang gặp lại người hành khất nầy và ngài nói ta là Quán Thế Âm Bồ Tát đây. Khi về lại Trung Hoa , Huyền Trang viết lại bài kinh BNTK này và viết bằng tiếng Sanskrit Ấn độ, rồi từ Sanskrit đó dịch ra tiếng Hán và có kinh này. BNTK ra đời năm 649 như vậy sau khi Phật nhập diệt hơn 1000 năm. Khi đó đã có Trung quán luận và Duy thức luận từ lâu cũng như các kinh của Phật dạy rất thực dụng và phổ biến. Vì thế học BNTK là học tổng hợp các kinh luận của đạo Phật sau cùng nên có câu thần chú cuối cùng Gathe gathe paragathe.. Ngoài quan điểm có vẻ vi diệu trên, chúng ta cũng có nguồn gốc kinh do Bồ Tát Long Thọ viết.

Những vấn đề liên hệ với Bát Nhã tâm kinh:

-Bát Nhã TK có phải do đức Phật giảng không?- Không ,vì nó ra đời sau khi đức Phật nhập diệt 1000 năm. Đức Phật có nói về Không không? – Có trong kinh A hàm khi các trưởng lão Bà la môn hỏi về thanh tịnh tâm? Phật dạy hãy an trú trong Không.

-Bát Nhã Tk có phải là một quyển kinh không?  -không, vì nó chỉ là một summary con đường tu đạo Phật.

-Bát Nhã TK có phải là bài chú mật tông không? – không, vì nó còn có diễn đạt Tánh Không và các giai đoạn tu tập tổng hợp của đạo Phật.

-Bát Nhã TK có phải là diễn đạt của Trung quán luận với Tánh Không không?  – không, vì nó còn có gốc nhìn của Duy thức luận và nó có sau khi Duy thức luận ra đời.

-Tại sao Bát Nhã TK lại được tụng ở tất cả các môn phái đạo phật như Tịnh độ tông, Thiền tông, 

Hoa nghiêm tông, Pháp hoa tông …- vì nó là bảng tóm lược của tất cả mọi đường tu tập của đạo Phật.

– Bát Nhã TK được Huyền Trang dịch ra chữ Hán, được Cưu ma thập dịch ra và nhiều người khác nữa dịch nên có khi nó chỉ 260 chữ, có khi có nhiều chữ hơn và ngày nay tại Mỹ người ta dịch lại Bát Nhã TK bằng lời dẫn giải cho dễ hiểu nên không còn 260 chữ nữa. Ngay cả Thích Nhất Hạnh cũng đã dịch lại Bát Nhã TK theo lời của thầy sữa chữa.

-Mọi người đều đồng ý là Bát Nhã TK là cô đọng về Tánh Không mà muốn thấu đạt Tánh Không này phải đạt được tánh giác cao vì Bát Nhã là trí tuệ là tuệ giác nên có khi còn gọi là bất khả tương nghị nên không thể dùng ý thức mà phân tích tổng hợp được. Nhưng cũng cần phải có thuật ngữ thông dụng để thấu hiểu ý nghĩa của Bát Nhã TK. Rất nhiều người cho rằng phải tu tập nhiều bước rồi mới học đến Bát Nhã TK tức là phải kinh qua nhiều Phật pháp cơ bản của các môn phái mới hiểu được chữ Không nầy. Như vậy chúng ta nhảy thẳng vào Bát Nhã TK mà chưa qua các bước cơ bản triết học đạo phật thì sẽ không thể nào lý giải đúng được. 

– Bát Nhã TK được tụng cho các lễ mai táng cho người chết là vì nó có tác dụng như ngài Huyền Trang kể lại là đẹp được các ma quỷ, các chướng ngại các vong linh để cho người chết được rộng đường đi đến siêu thoát.

– Rất nhiều người viết và giảng về Bát Nhã TK và cũng lặp đi lặp lại nhiều khía cạnh hơi khác nhau, cũng có người phân tích Tánh Không Bát Nhã. Tùy theo con đường tu đạo mà các thầy giảng Tánh Không khác nhau vì lý do Bất nhã TK chỉ có 260 chữ quá cô đọng nên ai hiểu góc độ nào sẽ giảng gốc độ đó.

-Sơ lược về triết lý thiền tông. Thiền định là đường lối tu chính của đạo Phật nên kg có tông phái thiền riêng biệt vì đức Phật ngộ đạo do thiền. Nên tông phái riêng về Thiền tông chỉ có sau 1000 năm đức Phật nhập diệt nhưng Thiền tông cho rằng nó xuất phát từ Đức Phật rồi đến Ma ha ca diếp. Thiền tông chủ xướng giải phóng tâm, đi về hiện tại mà không có quá khứ hay tương lai, đầu tiên là thiền chỉ, thiền quán, chỉ là chỉ định còn quán là quán chiếu tuệ giác. Sau đó là thiền Tánh Không ra đời và cuối cùng là Như lai tạng. Riêng về Tánh Không thì sự ra đời của Trung quán luận Long Thọ và tự Tánh Không là một mâu thuẫn đối chọi. Trung luận thì cho là vạn pháp không tự tánh vì do duyên mà giả hợp lại thành hình, còn đại thừa thì nhìn về bản thể sự vật là tự Tánh Không là Phật tánh Chân tâm Tánh giác là đốn ngộ Huệ năng, hay tiệm ngộ của Thần tú, chính vì sự đối chọi này đẻ ra Như lai tạng có kết luận tổng hợp lại cả hai gọi là Chân không Diệu hữu tức là đi từ sự phủ định đến sự xác định được hiểu là chân thật là không nhưng lại cuối cùng là có. Kết luận là sự buông xã tuyệt đối hoàn toàn (beyond) siêu việt. Nghĩa là từ tương đối đến tuyệt đối.Tương đối là không tự tánh giả hợp do duyên đến tuyệt đối là Tánh Không Phật tánh Chân như. Hình thức xem như đối chọi nhưng viên dung hòa hợp là lý thuyết cơ bản đạo Phật Hoa nghiêm kinh.

Văn tự Bát Nhã

Trích bài của cư sĩ Trịnh Nguyên Phước Người cư sĩ Paris:”Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Ða, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách”. “Bồ Tát Quán Tự Tại, sau khi nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệ Bát Nhã, liền thấy rõ rằng năm uẩn đều không, cho nên vượt qua khỏi mọi khổ ách”. “Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị”. “Này, Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ tưởng hành thức, cũng đều như vậy”. Khung cảnh xuất hiện của hai câu đầu này có thể hiểu theo hai cách, tùy theo bản kinh “ngắn” hay bản kinh “dài” :

a) Theo cách hiểu thông thường, dựa lên bản kinh “ngắn” (phổ biến tại Trung Hoa, Việt Nam), thì đây là lời giảng của đức Phật Thích Ca cho một đại đệ tử ngài là Xá Lợi Phất (Shariputra), sau khi lấy gương Bồ Tát Quán Tự Tại (cũng là một tên hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, tiếng Phạn là Akita, là một tên hiệu của Avalokiteshvara), đã nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệ Bát Nhã, nên thấy rõ rằng năm uẩn đều không, và vượt qua khỏi mọi khổ ách…

b) Còn một cách hiểu thứ hai, dựa lên bản kinh “dài” (theo truyền thống Tây Tạng). Bản kinh này có thêm một đoạn đầu và một đoạn chót : “Bữa nọ, đức Phật Thích Ca cùng các vị Bồ Tát và các tỳ kheo tụ họp nhau ở trên núi Linh Thứu. Trong khi đức Phật thiền định, thì Bồ Tát Quán Tự Tại, sau khi nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệ Bát Nhã, liền thấy rõ rằng năm uẩn đều không, nên giảng giải cho Xá Lợi Phất Tánh Không của sự vật (…) Ðức Phật không nói một lời nào, và sau khi Bồ Tát Quán Tự Tại giảng xong, ngài xả thiền và nói : “Ðúng lắm ! Ðúng lắm ! Ta và các vị Bồ Tát hoàn toàn tán thành, và tán thán công đức của Bồ Tát Quán Tự Tại”. Tất cả nghe xong đều hoan hỉ và cúi mình đảnh lễ đức Phật và các vị Bồ Tát”.

Nhưng nếu hiểu như vậy, thì chúng ta có thể tự hỏi tại sao Bồ Tát Quán Tự Tại, là một nhân vật biểu tượng cho lòng từ bi, cứu khổ, lại giảng giải cho Xá Lợi Phất, một đại đệ tử của đức Phật nổi tiếng về thông minh và trí tuệ ?

Thật vậy, Xá Lợi Phất (Shariputra) là một đệ tử đặc biệt thông minh và thông thái của đức Phật. Chỉ 15 ngày sau khi theo hầu đức Phật, ngài đã đạt được giác ngộ, và theo lời của các đồng môn, “ngoài đức Thế Tôn ra, không ai có được một phần mười sáu trí tuệ của Xá Lợi Phất”. Ngài lại đặc biệt có tài tổ chức, nên được đức Phật trao cho trọng trách giảng huấn tăng đoàn. Ðáng lẽ ra ngài phải là người thay thế đức Phật để điều khiển phong trào, nhưng chẳng may ngài đã viên tịch trước đức Phật 6 tháng. Tuy vậy ảnh hưởng của ngài vẫn tiếp tục trên nhiều thế hệ tăng già, với một số đi theo đường lối của ngài (Thượng Tọa Bộ), và một số chống đối lại ngài (Ðại Chúng Bộ). Bởi vì trí tuệ của Xá Lợi Phất bị đánh giá là khô khan, lạnh lùng, thiên về lý trí.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu được giá trị biểu tượng của bài giảng của Bồ Tát Quán Tự Tại, tượng trưng cho tinh thần từ bi, sự hiểu biết bằng trực giác (compréhension intuitive, directe), bằng “trái tim” (intelligence du coeur), cho Xá Lợi Phất, tượng trưng cho trí tuệ khô khan, dựa trên lý luận (intelligence analytique). Ý nghĩa của sự giảng dậy này là: không bao giờ trí tuệ khô khan, dựa trên lý luận, dù bén nhọn tới đâu chăng nữa, có thể đưa tới trí tuệ Bát Nhã siêu việt, qua tới bên bờ bên kia, tức là giải thoát. Chỉ có cái nhìn sâu (compréhension profonde), bằng trực giác, bằng “trái tim”, mới đưa tới trí tuệ Bát Nhã, qua tới bên bờ bên kia. Ý nghĩa của chữ “tâm” trong Tâm Kinh cũng có thể hiểu được như vậy. Và chúng ta cũng không nên quên rằng Bát Nhã Tâm Kinh thuộc vào những bộ kinh Ðại Thừa, nên cũng không tránh khỏi thiên vị: nhân vật số một Ðại Thừa giảng giải cho nhân vật số một Tiểu Thừa, điều đó cũng không có gì là lạ…

Về nội dung, thì hai câu đầu này hết sức quan trọng, bởi vì vào đề đã nói ngay tới tính chất Không (Shunyata) của năm uẩn (khandha), là cái cốt tủy của bài kinh.

Nhắc lại là năm uẩn là: sắc (rupa, forme), thọ (vedana, sensations), tưởng (sanna, perception), hành (samkhara, volitions), thức (vinnana, conscience), là những cái gì mà họp nhau lại, tụ nhau lại (từ đó ra chữ agrégats) thành ra con người, thành ra cái ngã, cái ta. Nếu phân chia ra làm “thân” (corps) và “tâm” (esprit), (thật ra đạo Phật không có phân chia nhị đối như vậy), thì có thể nói một cách giản lược là sắc thuộc vào “thân”, và thọ, tưởng, hành, thức thuộc vào”tâm”. Ngày xưa, người ta cho rằng thân thể này là do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành; ngày nay, người ta biết rằng thân thể gồm có xương, thịt, da, đầu, bụng, tay chân, các bộ phận… muốn phân chia thế nào cũng được, cho tới mô, tế bào, phân tử, vừa phức tạp vừa liên đới với nhau.

Câu đầu nói rằng “Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc”, đã làm cho chúng ta suy nghĩ rồi, nhưng câu sau lại nhấn mạnh thêm nữa: “sắc tức là không, không tức là sắc”. “Sắc = không, không = sắc”. Như vậy là quá rõ ràng rồi, không thể nào chối bỏ được khẳng định này. Nhưng vấn đề là khẳng định (affirmation) này cũng lại là một phủ định (négation). Nói rằng “sắc” là “không” cũng có nghĩa là “không có sắc”.

Nhưng nếu hiểu “không” là “không có”, thì lại có vấn đề. Người ta sẽ có thể bẻ lại rằng: rõ ràng “có” rành rành như vậy, mà làm sao lại bảo rằng “không”, rằng sắc là “không”, rằng thọ, tưởng, hành, thức cũng là “không” ? Vậy thì ai đang viết đây, ai đang đọc đây, ai đang suy nghĩ đây ?

Thật ra, nếu muốn làm sáng tỏ nghĩa chữ Không, thì chúng ta có hai cách :

1. Phải đặt lại ngay câu hỏi: “Không cái gì ?” (Vide de quoi ?). Bởi vì nếu bây giờ có một người cất tiếng nói lên: “Không”, và chỉ có một chữ “không” thôi (trước đó không có gì), thì dĩ nhiên chữ “không” đó không có một ý nghĩa nào. “Không” phải là không một cái gì, chứ không thể nào “không” trống không được. Vậy thì “không” bắt buộc phải là không một cái gì, và “cái gì” đó chúng ta phải hiểu.

2. Muốn hiểu chữ Không thì phải bắt đầu bằng chữ “có”. Quan niệm rằng mọi hiện tượng (phénomènes) (danh từ Phật là “pháp”, dharma) đều có thật, gọi là “tánh hữu”. Ðó là quan niệm thông thường nhất. Người ta thường tin rằng mọi hiện tượng, mọi sự vật chung quanh cũng như chính bản thân mình, là có thật (réel), là có tự tánh (nature propre), là cố định (fixe), bất di bất dịch (stable, inchangé), là một thực thể biệt lập so với những hiện tượng khác (distinct, indépendant). Rồi từ đó chấp (s’attacher) vào cái “có” (tức là “chấp hữu”), rồi vướng mắc, khổ đau triền miên…

Trong khi đó, theo tinh thần Bát Nhã, thì mọi hiện tượng trên thế gian (trong đó có chính mình) đều có “Tánh Không”, nghĩa là không có thật, không có tự tánh, không cố định, luôn luôn chuyển đổi, và đều do duyên hợp thành. Không có hiện tượng nào có thể tách biệt riêng rẽ ra khỏi các hiện tượng khác, tất cả đều liên đới mật thiết với nhau.

Nguồn gốc Phạn của chữ Không cũng giúp chúng ta hiểu thêm về khái niệm này. “Shunyata” : Tánh Không (vacuité), “shunya” : không (vide), là từ chữ “svi” (làm căng phồng lên) mà ra. Cái gì căng phồng lên thì bên trong thường trống rỗng. Chẳng hạn như cái “ta”, trông vẻ ngoài như căng phồng lên, “gồ ghề” lắm, do năm uẩn tạo thành, nhưng thật ra trống rỗng bên trong. Không có gì là cái “ta” ở giữa.

Nhưng nói như vậy không có nghĩa là không có gì hết. Ðiều lầm lẫn lớn nhất hay gặp phải là hiểu Không là không có gì hết, là hư vô (néant). Chính vì hiểu sai lầm Không là không có gì hết, là hư vô, cho nên người ta mới gán cho đạo Phật là một chủ thuyết hư vô (nihilisme). Người Tây phương thường dịch chữ Không là “vide” hay “vacuité”, và thường dịch câu đầu của”Sutra du Coeur” là “La forme est le vide, et le vide est la forme”. Thiết tưởng nên dùng danh từ “vacuité” hơn, bởi vì danh từ “vide” (vừa là tĩnh từ) thường làm người ta hiểu lầm là không có gì, là hư không. Trong khi đó, “vacuité” là một cái gì tế nhị hơn, có thể gợi nên tính chất không có tự tánh, không cố định, không biệt lập, không có thật. Trong nghệ thuật Thiền, người ta hay vẽ một vòng tròn để diễn tả cái Không, nhưng phải hiểu đó là Không, chứ không nên hiểu là con số không, hay không có gì hết.

Như vậy thì giáo lý vô thường (anicca), vô ngã (anatta), duyên khởi (paticca-samuppada) của đạo Phật đều nằm gọn trong một chữ Không!

Tính chất không cố định, không thường còn của năm uẩn chính là vô thường, tính chất không có tự tánh, không là thực thể biệt lập, mà luôn luôn tương hữu với nhau (thiền sư Nhất Hạnh gọi là inter-être) chính là vô ngã, là duyên khởi. Vô thường, vô ngã liên quan mật thiết với nhau, chỉ cần một chữ Không cũng đủ diễn tả được điều đó. Xét cho cùng, nguồn gốc của Tánh Không đã có từ giáo lý nguyên thủy của đức Phật, nhưng chỉ được phát huy một cách toàn diện với sự xuất hiện của tinh thần Bát Nhã và phái Trung Quán(Madhyamaka), cũng được gọi là Không phái (Shunyata vada).

Nếu hiểu được chữ Không tức là hiểu được đạo Phật. Hành sâu được Tánh Không, như Bồ Tát Quán Tự Tại, tức là vượt qua khỏi mọi khổ ách, là giải thoát, là giác ngộ.

“Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”.

= “Xá Lợi Tử, đó là tướng không của các pháp, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt”. Câu này tiếp nối câu trước: vì tất cả các pháp (hiện tượng) đều không cố định, cho nên sanh trở thành diệt, dơ trở thành sạch, thêm trở thành bớt, nóng trở thành lạnh, đẹp trở thành xấu, v.v. Và vì cái này trở thành cái kia, cho nên thực ra không có sanh không có diệt, không có dơ không có sạch, không có thêm không có bớt… Tất cả đổi thay không ngừng, tùy duyên mà xuất hiện dưới tướng này hay tướng khác. Hơn nữa, sanh diệt, dơ sạch, thêm bớt, tự chúng không phải là những thực thể, đó chỉ là những danh từ, những khái niệm, những biểu tượng mà con người tự tạo nên bằng cái tâm phân biệt của mình. Câu này cũng làm chúng ta nhớ tới “8 cái không” bát bất của ngài Long Thụ (Nagarjuna), trình bầy trong Trung quán luận (Madhyamika Shastra): “Không sanh không diệt, không thường không đoạn, không một không nhiều, không tới không đi” (ni production ni destruction, ni anéantissement ni persistance, ni unité ni pluralité, ni venue ni départ).

“Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới”.= “Cho nên trong tướng không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới”.

Về mặt ngôn ngữ, chúng ta nhận thấy tiếng Việt chỉ có một chữ “không” để chỉ danh từ “Tánh Không” và trạng từ phủ định “không phải”, trong khi tiếng Hán phân biệt danh từ “không” (Tánh Không) và những trạng từ phủ định “vô”, “bất” và “phi”. Ðó có thể là một trong những lý do dễ đưa chúng ta tới hiểu lầm về chữ Không trong đạo Phật. Trong danh từ Phật giáo, có 5 uẩn (agrégats), 6 căn (là 5 cơ quan giác quan và cơ quan tư tưởng : 5 organes des sens, et organe de la pensée), 6 trần (là 5 giác quan và tư tưởng : 5 sens, et la pensée), 12 xứ (là 6 căn cộng với 6 trần), và 18 giới (18 mondes). Tất cả đều không có gì là thực tánh, là cố định hết, tất cả đều tùy duyên mà ra.

 “Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc”.(Ở đây, đừng lầm chữ “diệc” với chữ “diệt”, “diệc” có nghĩa là “cũng”, “diệt” có nghĩa là “hủy diệt”).= “Không có vô minh, cũng không có hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc”. Như vậy có nghĩa rằng cái gì cũng là Không hết, ngay cả những điều căn bản trong giáo lý Phật, như Mười hai Nhân duyên (từ vô minh cho tới lão tử), Bốn Ðế (khổ, tập, diệt, đạo), mà người học Phật đã nghe đi nghe lại cho đến khi in sâu vào tâm khảm, và ngay cả cái trí tuệ chứng đắc mà người tu Phật vẫn hằng ao ước.

Vậy là thế nào? Nếu tất cả đều là Không, thì chẳng lẽ đạo Phật cũng là “không” hay sao? Dĩ nhiên câu này không khỏi gây hoang mang, nghi vấn và xáo trộn trong đầu người học Phật.

Nơi đây, chúng ta thấy tất cả sự thâm sâu vi diệu của tinh thần đạo Phật. Trong Kinh Bát Nhã, mỗi khi đức Phật thuyết giảng một điều quan trọng, ngài thường lặp lại  “Na punar yathocyate” (“Tuy nói như vậy, nhưng không phải là như vậy”). Bởi vì đức Phật muốn lưu ý người nghe rằng ngôn ngữ, danh từ chỉ là một phương tiện, và khi ngài lên tiếng nói đã là sai, đã tách rời khỏi sự thật, chỉ có thể đón nhận được bằng thực nghiệm, bằng trực giác. Trong suốt lịch sử triết học và tôn giáo, có lẽ chỉ có đức Phật là người duy nhất nói lên những lời như vậy.

Ngài Long Thọ (Nagarjuna) cũng đã vạch rõ ra hai mức độ chân lý trong giáo lý đức Phật: tục đế (samvriti satya), tức là sự thật tương đối (vérité relative), theo quy ước (conventionnelle), và chân đế, còn gọi là đệ nhất nghĩa đế (paramartha satya), tức là sự thật tuyệt đối (vérité absolue), vĩnh cửu (éternelle), vượt khỏi khái niệm, ngôn từ (au-delà des concepts, du langage). Nhìn dưới khía cạnh tục đế, thì Mười hai Nhân duyên, Bốn Ðế có giá trị, nhưng nhìn dưới khía cạnh chân đế, thì Mười hai Nhân duyên, Bốn Ðế đều là không, nghĩa là không có tự tánh, không cố định. Sở dĩ đức Phật tạo dựng nên những điều đó, là để giúp cho chúng sanh diệt khổ, cũng như người thầy thuốc chế tạo ra liều thuốc để chữa cho người bệnh khỏi bệnh. Giáo lý đức Phật chỉ như cái bè dùng để qua sông, như ngón tay để chỉ mặt trăng. Ðó chỉ là một phương tiện, một giả thiết (prajnapti). Chấp vào đó, coi đó như là một sự thật cố định, là sai lầm vậy. 

“Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề”.= “Vì không sở đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Ða, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) cũng nương Bát Nhã Ba La Mật Ða, đạt đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”.

Không sở đắc có nghĩa là không vướng mắc vào một điều gì, đạt được cái tâm như như, cho nên Bồ Tát nương theo tinh thần Bát Nhã, xa lánh tất cả những mơ tưởng sai lầm, và đạt được Niết Bàn. Chính là vô đắc mà đắc, không tìm mà đạt, đó mới là tinh thần Bát Nhã. Câu này cũng được hiểu là tu tập là làm giảm đi lậu hoặc phiền não chứ không có đắc lấy từ ngoài vô trong.

 “Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Ða, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Ða chú tức thuyết viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Ðề Tát Bà Ha”.= “Nên biết, Bát Nhã Ba La Mật Ða là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thẩy khổ, chân thật không sai. Vì vậy nói chú Bát Nhã Ba La Mật Ða, liền nói chú rằng : Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Ðề Tát Bà Ha “. Ðây nói về Bát Nhã Ba La Mật Ða, như một câu thần chú (mantra) mang một sức mạnh vô biên, có khả năng tiêu trừ được tất cả những khổ đau.

Sự xuất hiện của câu thần chú này vào cuối bài kinh vẫn còn là một nghi vấn cho những nhà Phật học. Có những nhà Phật học cho rằng vào lúc những bản cuối của Bát Nhã Tâm Kinhđược soạn thảo (thế kỷ thứ IV sau CN), thì Mật tông (tantrisme) đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ nơi dân gian, và đã bắt đầu xâm nhập vào Phật giáo. Ðiều đó giảng nghĩa tại sao bài Bát Nhã Tâm Kinh lại được kết thúc bằng một câu chú. Nguyên văn chữ Phạn là: “Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha”, có nghĩa là : “Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên bờ kia, hoàn toàn vượt qua, hoàn toàn giác ngộ !” Nhưng còn một cách hiểu câu chú này, theo tinh thần Thiền, là đọc câu chú này không phải để hiểu, mà để chỉ thẳng vào tâm, cái tâm không không phân biệt, không ý niệm. Khác với phần đầu dùng ngôn từ, ý niệm để giảng giải, câu chú kết thúc này đánh thẳng một chùy vào trực giác, vào cái tâm đã mở rộng để sẵn sàng đón nhận trí tuệ vượt khỏi ngôn từ. Ðó là cách giảng của thiền sư Thanh Từ, và thầy có dẫn hai thí dụ là bài kệ của thiền sư Trì Bát đời Lý, dòng Tỳ Ni Ða Lưu Chi, và bài tán Tuệ Trung Thượng Sĩ bởi quốc sư Tông Cảnh, đời Trần, cả hai đều kết thúc bằng câu “Án tố rô tố rô tất rị”.

Quán chiếu Bát Nhã

Sau khi thông qua các bài viết về kinh Kim cang, Trung quán luận, Tánh Không, chúng ta đi đến quán chiếu Bát Nhã tâm kinh. Quán chiếu là soi rọi tìm thấy nhận biết thật rõ vấn đề nào đó bằng tư duy và thiền định.

* Bát nhã với thiền sư Thích duy Lực và Nguyệt khê.Thích duy Lực giảng giải Bát Nhã TK dưới gốc độ vô nhị biên (bất nhị) và bản tâm mà xem Bát Nhã là cây chổi dùng để quét sạch là từ chối. Kế tiếp dùng thiền công án để thấu đạt.Thích duy Lực giải thích Bát Nhã rất khó giải thích câu Không bất dị sắc làm sao hiểu nên dùng tánh bất nhị mà giải thích tức là tự tánh bất nhị. Kế đến là không lọt vào tứ cú, chú ý đến tự tánh nên giải thích chữ Không là tự Tánh Không với cái dụng của tự tánh nầy, Không đi đến đâu thì cái dụng đi đến đó. Vì không có hai do chú ý đến bất nhị nên sắc tức là tự Tánh Không. Vì tâm tạo ra sắc nên không có thật. Câu thị chi pháp không tướng được giải thích là tự tánh vì nó không sanh diệt, không nhơ sạch không thêm bớt nên không tướng là phá đi ngủ uẩn, lục căn, lục trần lục thức nên dùng chữ Vô là không có thật để quét đi tri kiến chấp thật của phàm phu. 

Rồi quét đến duyên giác, 12 nhân duyên, quét đến Tứ diệu đế, sau đến quét Bồ tát đạo đại thừa, nên vô sở đắc vì có vô sở đắc thì tâm mới thanh tịnh nên cái dụng của Bát Nhã mới tự nhiên hiện ra, tâm vô quái ngại tức tự do tự tại vô hữu khủng bố có nghĩa là quét tri kiến chấp thật đại thừa, đi xa hơn quét cho là có Phật là thật nên dùng chữ viễn ly là cây chổi quét điên đảo mộng tưởng niết bàn tức là quét luôn đến nhất thừa và ba đời quá khứ hiện tại tương lai của Phật đều quét sạch hết tất cả mới đạt giác ngộ tối cao, giác ngộ này không còn nhị biên quét sạch nên lòi cái dụng ra, kinh Lăng già có câu: vô hữu niết bàn Phật , vô hữu Phật niết bàn nên quét luôn cứu cánh niết bàn và đó là câu đại minh chú vô thượng chú, từ đó tự tại không bị không gian thời gian ràng buộc số lượng cũng hết luôn và cuối cùng là câu chú Gathe gathe. …là mệnh lệnh cho sức Dụng của Tự Tánh Không.

Nguyệt khê thiền sư giảng Bát Nhã dưới gốc độ đại thừa tuyệt đối luận.

Cảnh giới tuyệt đối là mênh mông vô biên vô thủy vô minh vô cùng tận là tồn tại của tuyệt đối, không gian thời gian vật chất tinh thần đều bình đẳng đồng tồn tại, cộng hữu nhau không thể phân chia. Vô thủy vô minh là hang ổ của nhất niệm vô minh, khi nhất niệm vô minh chưa có thì thời gian và không gian chưa thể hiểu biết được cũng như tính toán số lượng. Và rồi khi bắt đầu có ý niệm về thời gian không gian số lượng thì tự ngã bắt đầu tham luyến vạn vật mâu thuẫn và có tương đối vũ trụ. Như vậy nếu nhất niệm vô minh mà trở về vô thủy vô minh thì tiêu diệt hết các thời gian không gian số lượng chừa lại màng đêm tâm tối. Đức Phật tìm ra điều nầy nên đưa đến thế giới tuyệt đối là thường lạc ngã tịnh, buông bỏ tương đối để đạt tuyệt đối nên gọi là bất khả tư nghị. Dùng thiền công án để phá nhất niệm vô minh thì màng đêm vô thủy vô minh sẽ được mở ra, bản lai diện mục được mở ra và buồn vui giận sân đều được thống trị trở thành tuyệt đối của Phật tánh giải thoát trở về chân thật tuyệt đối, vũ trụ trở thành tuyệt đối mới giải thoát chân chính, tự do chân chính, bình đẳng chân chính chẳng có ai thành lập bản lai như thế là như thế, tự tánh từ thời bản nguyên như thế.

*Bát nhã với Trung quán luận.

Trung luận do bồ tác Long Thọ đưa ra sau 600 năm đức Phật nhập diệt, chủ xướng Tánh Không. Chủ yếu là vạn pháp do duyên giả hợp mà thành nên ta nói là không, tức là không tự tánh và trung luận là sự không chấp vào hai đầu của cực đoan giữa Có và Không. Trung luận là sự chuyển dịch ở giữa hai thái cực đó vì vạn pháp chuyển dịch không ngừng nghĩ nên không có đứng yên ở hai thái cực đó.Trung quán là vô tự tánh còn gọi là vô ngã tưởng. Bát bất là lý thuyết trung luận: không sinh / diệt, không một /hai số lượng, không thường /đoạn, không lai/ xuất: không đến /kg đi. Phủ định tuyệt đối là phủ định cả hai lần. Tuy đối diện hai cực đối chọi nhau nhưng lại tương dung cùng nhau hiện hữu. Dưới gốc độ của Trung luận là Bát Nhã TK là sự phủ định toàn bộ và triệt để sự có mặt của vạn pháp. Phủ định tứ cú là có /không có/cả hai có và không có, không có có và cũng không có không có. Kế tiếp là phủ định luôn 4 nguyên nhân: tự chính nó, từ cái khác nó, từ cả hai hợp lại, không có nhân duyên nào hết. Kết luận là không tánh là không có mặt của sự tự tính mà mình đi tìm kiếm.Theo thiền sư Suzuki, sự thấy biết bằng trực giác là điều giác ngộ nhìn vạn pháp như thực, như thị, có nghĩa là bỏ được nhị nguyên tính của nó, thấy đúng đắn cái duyên khởi của nó và không còn ngã trong nó, không bị kẹt ở kiến chấp của ý thức gọi là kiến thức, Trung luận đặt vấn đề về tự tính, lý luận như sau: có tự tính trong các duyên là sai lầm vì có do duyên thì có sinh tử thì không thể là tự tính được. Tự tính thì tạo tác thì sai vì tự tính không tạo tác, không nhờ pháp khác tạo ra nó. Và nếu tự tính thì nó không biến dị nên Tánh Không có 3 phẩm tánh là không do tạo tác mà thành, không nhờ pháp khác mà thành và không biến dị tức không sanh diệt. Câu kết của Long Thọ: các pháp do duyên khởi nên ta nói là không là giả danh và cũng là trung đạo. Bát Nhã tâm kinh được hiểu nghĩa chữ Không làm hai phần: vô ngã không là theo Trung luận của Long Thọ và kế tiếp là Vô pháp không là theo Duy thức luận của Vô trước. Phần vô ngã không là Trung luận là không có tự tính không có độc lập không tự nó mà có, không sanh diệt không biến dị còn gọi là Tánh Không Trung luận. Long Thọ bảo không có tự ngã độc lập tự có mà do duyên giả lập. Long Thọ giải nghĩa trên tục đế và chân đế mà chân đế không thể dùng lý luận ngôn ngữ mà hiểu được nên phải dùng trực nhận trực giác mà thấu đạt, chân đế còn gọi là tuyệt đối tối hậu còn tục đế còn gọi là thể tức tương đối. Long Thọ cho rằng chân đế bị che phủ bởi vô minh, bởi duyên khởi và giả danh vì thế Tánh Không là không có giá trị tuyệt đối nào nên là trống không (emptiness). Ngài nói thế gian không khác niết bàn và niết bàn không khác thế gian, tuyệt đối bản thể không khác hiện tượng như vậy Tánh Không, không phải là từ chối thế giới hiện tượng mà chỉ có nghĩa là không chấp thế giới hiện tượng là thật sự tuyệt đối tối hậu. Như vậy thế giới hiện tượng bất khả xác định nhưng ngài phủ nhận tính bất khả xác định này, ngài tin rằng nhờ trực nhận trực giác mà ta nhận ra được chân lý tối hậu và tin tưởng vào sự thống nhất tức là bát bỏ sự phân biệt, chỉnh bỏ đi tính phân biệt mà giác ngộ. Không là vô thường, vô ngã và do duyên. Không có thật. Bát Nhã là phá chấp, phá chấp ngã, phá chấp hữu, phá chấp thường, phá chấp pháp, phá chấp trí đắc và phá ngay cái chấp không.

* Bát Nhã với Duy thức luận.

Duy thức luận ra đời sau khi Tánh Không trung quán một thời gian gần 100 năm. Vì thế không thể gọi là Phật giảng về Duy thức mà do ứng thân của Phật Di Lạc giảng giải. Như vậy bồ tác Vô Trước Thế Thân đều lấy Tự tánh Duy thức mà làm nòng cốt cho Duy thức luận gồm có 3 tự tánh:

-Biến kế sở chấp tính (zh. 遍計所執性, sa. parikalpita-svabhāva), còn được gọi là huyễn giác (zh. 幻覺) hay thác giác (zh. 錯覺): Tất cả những hiện hữu đều là kết quả của trí tưởng tượng (huyễn giác), đó chấp trước, cho rằng sự vật trước mắt là có thật, là độc lập; biến kế là biến đổi và kế thừa, sở chấp là chấp vào hình tướng và danh mà hiện hữu gọi tên.

-Y tha khởi tính (zh. 依他起性, sa. paratantra-svabhāva), nghĩa là dựa vào cái khác mà sinh ra: Tất cả pháp hữu vi đều đó Nhân duyên mà phát sinh, lệ thuộc vào nhau, không có tự tính (sa. asvabhāva); tức là do giã hợp của duyên sanh

-Viên thành thật tính (zh. 圓成實性, sa. pariniṣpanna): Tâm vốn thanh tịnh, là Chân như (sa. tathatā), Như Lai tạng (sa. tathāgata-garbha), là tính Không (sa. śūnyatā). Tức là viên tròn đẹp đẻ hoàn hảo thật sự tánh nó, nó chính là nó không có gì ngoài nó. Vậy giải thích Bát Nhã tâm kinh theo Duy thức như sau:

1. Năng tri: Quán tự tại hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngủ uẩn giai không độ nhất thế khổ ách: Bồ tác hay hành giả thực hành và nghiền ngẫm với trí mở rộng thấy ngủ uẩn là Không, không đây có hai tầng: tướng không ngủ uẩn tức dụng thể không 5 uẩn chiếm cứ trong không gian tức tự tánh tuyệt đối và thứ hai là không thật là nó nữa; thực tại giả lập ra, do quá trình huyễn hoá. Từ đó xét kỹ là mọi khổ ách tiêu tan từ quá khứ đến hiện tại không còn khổ ách.

2. Xá lợi phất sắc bất dị không không bất dị sắc sắc tức thị không không tức thị sắc thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.

Đoạn văn này có hai yếu tố dính với duy thức: tự tính viên thành thật (tuyệt đối) và tự tính y tha khởi (tuỳ thuộc), sắc là không với ý nghĩa không gian chứa đựng sắc và sắc chứa đựng không gian là viên thành thật là định thuyết bất biến tuyệt đối có sẵn từ khi trái đất lập nên, sắc tức là không chính là không gian là vậy. Kế đến trong khi trí phân biệt vận hành thì sắc này là không có tự tánh, mà tùy thuộc do duyên mà giả hợp, tức là do luân hồi duyên khởi sanh diệt chằng chịt với nhau nên sắc này với tánh y tha khởi của Duy thức là một, quán tưởng để nhận ra điều đó là đoạn văn này.

3. Đoạn văn kế tiếp: Xá lợi tử thị chư pháp bất sanh bất diệt vô trí diệt vô đắc. Đoạn văn nầy liên hệ duy thức với 3 tự tánh: viên thành thật là Tánh Không thì không sanh không diệt còn thể không thì không tốt không xấu, không thiện không ác không sạch không nhơ. Tự tánh biến kế sở chấp là do sắc hiện hữu qua căn mắt thấy hình tướng thì giả lập, do danh mà hiện hữu vì vậy không phải thật, nó là thể không nên có sanh diệt, thay đổi theo thời gian không gian. Cuối cùng là tự tánh y tha khởi là sắc này do tâm thức biến hiện nên do nhân duyên mà thành hiện hữu ,như vậy nó có nhơ sạch sanh diệt . Để hiểu đoạn văn nầy nên chia ra hai giai đoạn là mê và giác, mê thì có sanh diệt, tăng giảm sạch nhơ tức là tự tánh y tha khởi và biến kế sở chấp , còn ở giai đoạn Giác thì không sanh diệt, không sạch nhơ, không tăng giảm. Về tính vô ngã thì về không gian thì có nhân và duyên rồi ra quả như sau: 6 căn do nhân duyên kết gặp 6 trần ra 6 thức, duyên là 6 trần theo y tha khởi tánh tuỳ thuộc vào 6 căn mà ra 6 thức, kết quả là 6 thức nên 6 căn không có tự tánh thì 6 trần cũng không có tự tánh, thì 6 thức cũng không có tự tánh hay gọi là thức chất nên kết luận Tâm vô thường Pháp vô ngã là Duy thức vậy. Về thời gian thì 12 nhân duyên là tiến trình theo thời gian là lịch trình huyễn hóa của chúng sanh do duyên mà ra. Xét đến Tứ diệu đế, thì áp dụng 3 tự tánh Duy thức thì chia ra hai giai đoạn, giai đoạn tương đối y tha khởi và biến kế sở chấp của khổ tập diệt đạo là thật tướng của thọ tưởng hành thức, còn viên thành thật là tuyệt đối là Tánh Không của thọ tưởng hành thức. Kế đến là tri hành, tri thức đúng đắn thì là chứng, còn hành đúng đắn thì đắc, đó là chân lý tối hậu tuyệt đối. Tại đây mọi người nghĩ là từ chối không tri không đắc, trong khi Duy thức không nghĩ là từ chối mà là tướng không của tri và đắc tức là giả lập y tha khởi và biến kế sở chấp nên hiểu đúng đắn thì viên thành thật là chứng đắc. Tức là hiểu tri hành là giả lập là thức biến kế và y tha khởi thì đạt được chứng đắc là viên thành thật. Nói tóm lại theo Duy thức thì không phải từ chối mà là hiểu đúng nghĩa của nó từ 4 thánh đế 12 nhân duyên đến tri hành mà hiểu y tha khởi và biến kế sở chấp để đi đến viên thành thật là tiến trình tuần tự thực hiện. Bây giờ đến quả nhận được là dĩ vô sở đắc cố bồ đề tất đoạ ….. hết câu thần chú yết đế yết đế(gathe gathe) chấm dứt bài tâm kinh là kết quả. Kết quả 1. Là thoát khổ ách 2. Là giác ngộ niết bàn 3. Chứng minh điều ấy.

Chiếu kiến ngủ uẩn giai không trên mặt tuyệt đối thì 5 uẩn và Không như nhau , Tánh Không của 5 uẩn là tuyệt đối tự tính nên dụng thực hành tri Bát Nhã là tri thức hiểu đúng thực tướng vạn pháp tức là giải thoát đến niết bàn.

Chứng minh điều ấy là kinh Kim cang Phật dạy tu bồ đề rằng cả 3 đời Phật quá khứ hiện tại và tương lai đều có Phật tánh hay Tánh Không đều chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác là tri giác tuyệt đối.

Cuối cùng là câu thần chú Gathe gathe…nghe là năng tri, đọc thần chú là sở tri, do đó khi đọc thần chú xong là hành giả áp dụng Năng sở song vong là chủ thể đọc và nghe thần chú thì đối tượng ngay lúc đó hành giả biết mình nghe được âm thanh đọc mà biết bằng trực nhận trực giác, chứ không phải do ý thức về âm thanh đó vì năng tri nghe âm thanh đó là y tha khởi do duyên, nên dùng trực giác tâm thức mà nhận biết, nên chủ khách đều là một xóa tan nhị biên phân biệt thành nhất nguyên, đó là tri thức đúng thật tướng của Tâm và Vật. Như vậy nghe bằng tánh nghe là giác ngộ viên mãn đó là khoảnh khắc giác ngộ.

* Bát Nhã với Hoa nghiêm tông.

Vài tư tưởng quan trọng trong “Kinh Hoa nghiêm”

 Đây là bộ kinh đồ sộ, cao thâm. Chúng ta có thể đi vào nó thông qua tác phẩm độc đáo nhỏ gọn: “Yếu chỉ Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh” (Duy Tắc thiền sư) (Thích Duy Lực dịch).

Theo Duy Tắc Thiền sư cũng như truyền thống triết học Phật giáo, bản thể và mỗi sự vật hiện tượng thường được miêu tả từ ba phương diện: Thể (mặt bản thể) (tánh), Tướng (mặt hiện tương, biểu hiện), Dụng (mặt ứng dụng, hoạt động). Trong tác phẩm “Yếu chỉ Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm kinh”, có 4 vấn đề cần quan tâm (theo kiến giải của Duy Tắc thiền sư):

 -Sự sự vô ngại: Sự sự vô ngại là tư tưởng quan trọng. Sự sự vô ngại: tất cả giới hạn, phân cách của sự vật xứng với tánh dung thông, một tức nhiều, nhiều tức một, lớn vào nhỏ, nhỏ vào lớn, trùng trùng vô tận, nên gọi là “sự sự vô ngại pháp giới”.

 -Đồng thời cụ túc: Tất cả sự vật hiện tượng đồng thời đầy đủ trong một  sự vật hiện tượng, mỗi sự vật hiện tượng đều có sự tương trợ lẩn nhau.

 -Nhất đa tương dung: Một sự vật hiện tượng dung nạp nhiều sự vật hiện tượng, nhiều sự vật hiện tượng ở trong một sự vật hiện tượng, mỗi sự vật hiện tượng chẳng đồng mà đồng, đồng mà chẳng đồng.

 -Chư pháp tương tức: Tất cả sự vật hiện tượng vốn chẳng có khác, nên sự vật hiện tượng kia tức sự vật hiện tượng này, sự vật hiện tượng này tức sự vật hiện tượng kia, tương tức với nhau.

Có thể tóm lược chìa khóa các ý vừa nêu đối với “Kinh Hoa Nghiêm” là “Ý niệm về tương tức và tương nhập” (Cái này là cái kia, cái này trong cái kia…) 

Tham khảo thêm “Từ điển Phật học”: “Trong Tiểu thừa, tính Không nhằm nói về thể tính của con người và được sử dụng như một tĩnh từ (s: śūnya). Ðại thừa đi thêm một bước nữa, sử dụng Không như một danh từ (s: śūnyatā), xem Không là vạn sự, vạn sự là Không, tức mọi hiện tượng thân tâm đều không hề có tự tính (s: svabhāva). Mọi pháp đều chỉ là những dạng trình hiện (呈現; e: appearance; g: erscheinung), chúng xuất phát từ tính Không, là không. Tính Không vừa chứa tất cả mọi hiện tượng, vừa xuyên suốt các trình tự phát triển sự vật

Sắc tức thị không”: (Tức thị: Không khác gì).

“Sự vật có hình tướng” hoặc “thân thể này” chẳng khác gì cái chân không diệu hữu, bản thể, Phật tánh, chân như,…Không tức thị sắc”: Cái diệu hữu, bản thể, Phật tánh, chân như,… không khác gì sự vật có hình tướng hoặc thân thể này. Kết hợp hoa nghiêm và Bát Nhã TK là nhất thiết duy tâm tạo. Tâm là 4 uẩn còn lại của 5 uẩn, tâm tức là không, không tức là tâm, như vậy Tâm ở đây được hiểu là hai khía cạnh: một là tâm phân biệt , tâm nầy hoạt động của con người gồm có sở tri là bị biết và năng tri là người biết, phân biệt sinh tồn và làm việc.Tâm này như con khỉ nhảy múa với trần cảnh bên ngoài. Kế tiếp là tâm Phật là chân tâm, là Tánh Không là tâm lóe ra khi hết vọng tâm phân biệt.Tâm này là tự tánh tâm, nên không sanh không diệt là tự Tánh Không . Kết luận hoa nghiêm là một là tất cả tất cả là một, một đây là Phật tánh tức Tánh Không , tất cả đây là sắc.

* Bát Nhã nhìn gốc độ Pháp Hoa= Chân không diệu hữu

Chân không diệu hữu ra đời theo kinh Pháp hoa, hiểu theo đơn giản là chân thật của hư không lại có sự hữu một cách kỳ diệu. Nhưng hiểu một cách trực nhận thì chân không này là chân lý tuyệt đối thì có nhiều tên gọi như trí tuệ Bát Nhã, viên giác tánh, tri kiến phật, chân tâm,như lai tạng là chân tánh phật tánh. Từ đó cái hữu có kỳ diệu là sự hoá hiện của chân không mà ra và cái hữu đó là sanh diệt là vô thường là biến đổi duyên khởi là tướng không giả lập. Vì là tướng nên sanh diệt nên có nhiều tên gọi là nhân tướng, quả tướng, nghiệp tướng, hiện tượng. Chính sự đối nghịch giữa chân không và cái hữu nên mới gọi là chân không diệu hữu.Thật tướng chân như, pháp tánh là thế giới chân thật trường trú của Phật ở trạng thái chân không, nó không sanh diệt, cấu tịnh tăng giảm cũng không có nghiệp, không hư vọng, và từ đó nó dung thông với thế giới hiện tượng không bị ngăn ngại là chân không diệu hữu chân không có đến đâu thì diệu hữu có đến đó.

* Bát nhã với thiền sư Suzuki

Thiền sư Suzuki cho rằng Bát Nhã TK là tâm yếu của bộ kinh Bát Nhã vì hầu hết bộ kinh Bát Nhã không có Bồ tát Quán Âm, quán tự tại avakitesvara. Chủ yếu của bộ kinh này là thần chú cuối cùng. Tâm kinh đúng là tiêu chuẩn của kinh Bát Nhã mở đầu là từ chối và cuối cùng là khẳng định nên gọi là giác ngộ.

Phủ định tất cả giãn lược vào cái không , đầu tiên là từ chối 5 uẩn, 18 giới, 12 xứ, 12 nhân duyên, 4 thánh đế. Phủ định luôn trí và đắc vì trí đắc do suy luận nhị biên thì không bao giờ có. Cuối cùng là câu thần chú Gathe Gathe là giác ngộ. Vì thần chú nên không dịch ra được dù tiếng hán hay tiếng gì đi nữa. Nhưng Bát Nhã TK lại được thiền tông ưa chuộng, mặc dù rất khó hiểu được nhưng thiền tông quan niệm càng khó hiểu thì càng đắc được đó mới là chủ ý của thiền. Chính sự thần bí của câu chú này mà là chìa khóa để đạt giác ngộ, Bát Nhã TK lấy trí tuệ Bát Nhã là chính các kinh luận Bát Nhã gồm 600 quyển nhưng khác ở chỗ có câu thần chú cuối cùng này. Tâm kinh là cốt lỏi của bộ kinh Bát Nhã nhưng cô đọng gồm 260 chữ mà thôi, theo thiền sư Suzuki tâm kinh là một công án thiền mà quá trình giác ngộ của người hành giả là chuỗi đồng phủ định, phủ định bất cứ thứ gì do trí óc mang lại vì vô minh là không thấy sự thật như thế là như thế, nên từ chối thức không còn chỗ nào để bám là con đường giác ngộ. Gathe là điểm cuối cùng của giác ngộ, tham công án miên mật đến cuối cùng là Gathe, có người hỏi thiền sư Phật là ai? Thiền sư trả lời Phật là thùng đầy nước bị thủng đáy, nước chảy ra từ lỗ thủng đáy đó như từ chối cho đến cạn kiệt rồi bùng lên ngộ đạo Gathe. Thiền công án từ chối đi đến đích là gathe giác ngộ là các pháp như thật với tự tính chân như của chúng.

* Bát nhã với triết lý thiền tông.

Triết lý thiền tông bao gồm Tánh Không Bát Nhã và Như lai tạng. Mở đầu của thiền tông là câu: Niêm hoa vi tiếu: Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành phật. Cả 3 câu trên là đúng theo Bát Nhã tâm kinh là phủ định từ chối. Sự phủ định này không có nghĩa là không có, không ngơ mà là không chấp vào, không bám vào, không lệ thuộc vào. Câu cuối cùng là kiến tánh thành Phật có nghĩa là thành Phật tánh trong ta chứ không phải con người Phật hay một dạng Phật nào ngoài tâm ta. Bát Nhã cho ta Tánh Không, đồng nghĩa là tánh giác nên hiểu tánh giác đó qua hình thức từ chối là bỏ được nhị biên phân biệt, từ chối là buông xã tuyệt đối tức không bám trụ, rồi từ chối đó có nghĩa không còn thời gian, không gian, số lượng của ý thức ban đầu, rồi đạt đến năng sở song vong không còn năng của ta không còn sở của người, rồi không quá khứ không tương lai mà chỉ còn hiện tại từng sắc na hiện tiền và nó chính là nó không gì ngoài nó là như thị. Đối với tâm Duy thức thì hàng phục tâm và an trụ tâm đạt chân tâm. Kết luận là nhân là ưng vô sở trụ đưa đến quả là vô sở bất tại tức nơi nào cũng hiện hữu là Phật tánh. Triết lý thiền tông về Tánh Không cho rằng Tánh Không là vô ngã và vô pháp để vượt qua được hai thuyết Trung quán Không và Duy thức vô pháp chấp. Kế đến là Như lai tạng là một hình thức của Duy thức áp dụng vào cơ thể chúng sanh 5 uẩn mà tu tập. Như lai là Phật tạng là cơ thể tu theo cơ thể của Phật từ cơ thể chúng ta là mang 6 căn ra mà tu tập. Như lai tạng là dựa vào kinh Lăng nghiêm chủ ý nhiều nhất là tánh thấy tánh nghe và tu tâm hàng phục tâm và an trụ tâm. Như lai tạng còn gọi là chân như là Phật tánh. Phật tánh có 7 đức tính như sau: Thường: Thường còn, không mất không biến đổi; Tịnh: Trong sạch; Thật: Thành thật; Thiện: Lành, chẳng ác; Đương kiến: Thấy hết những cái xảy ra; Chân: Đúng thật, không giả. Khả chứng: Có khả năng trải nghiệm chứng đắc thành chánh quả.

Tóm lại thiền tông lấy Bát Nhã tâm kinh là căn bản của triết lý đạo Thiền để nhận biết tầm quan trọng của Bát Nhã Tâm kinh.

Thật tướng Bát Nhã

* Một là phải nhớ rằng Bát Nhã tuy chủ trương trên phương diện nhận thức luận, tất cả hiện tượng đều là biểu tượng của tâm, ngoài tâm ra tất cả đều không, nhưng cái không đó không phải là cái không trống rỗng, hư vô, chỉ có phủ định, mà là cái không linh động, cái không “diệu hữu”, cái “không tức thị sắc”. Mặt khác, về phương diện tu dưỡng, cái không tuy phủ định để thấy không có tự tính nhưng vì thế mà khẳng định thấy không có gì để chấp trước. Không chấp trước không phải là xa lánh thế gian, sinh hoạt tiêu cực, mà là để phát huy cái tinh thần hoạt động tự do vô ngại, vận dụng tất cả mọi hoạt động vô vi, vô tác để thực hiện từ bi cứu khổ trong tinh thần bình đẳng, vô sai biệt.

*Hai là phải hiểu rằng muốn đoạn trừ vô minh, không thể bằng hành vi tiêu cực chấm dứt suy tưởng trừu tượng mà trái lại phải tích cực bằng vào nổ lực của ý chí vận dụng tâm năng để chứng nghiệm cái đối nghịch với cái hình tượng huyễn ảo do vô minh sai lầm vọng tạo. Vô minh là cái thấy biết điên đảo, ngược lại với trí tuệ căn bản. Vô minh phủ nhận Giác ngộ, nhưng ngược lại Giác ngộ không phải là một khái niệm tiêu cực chỉ vỏn vẹn có nghĩa là đoạn diệt Vô minh. Giác ngộ không phủ nhận gì hết. Giác ngộ là một khẳng định, như lời Phật dạy: “Thấy Pháp tức thấy Phật, thấy Phật tức thấy Pháp”. Dứt bỏ khái niệm về sự hữu-có-tự-tính để đến Tánh Không mà chỉ bằng cách ngưng hoạt động ý thức thời giống như trường hợp đức Phật trước khi thành đạo đã từng tu tập với hai vị đạo sĩ là Aràda Kàlàma và Udraka Ràmaputra cả hai pháp thiền Diệt tận định và Ly thức định, diệt hết mọi cảm thọ, dứt bặt mọi tư tưởng và ý thức khi nhập định, biến thân xác tựa hồ thành gỗ đá. Ðức Phật nhận ra đó là một hình thức tu tập quá tiêu cực không thể nào đưa đến giác ngộ (Thiền vô sắc giới).

*Ba là cần biết rằng lúc khởi đầu đạo lộ đưa đến thực chứng Tánh Không phương tiện duy nhất để hiểu biết là tư duy phân biệt. Quả vậy, các pháp có thể phân thành hai loại: loại hiện pháp (abhimukhì), như sắc, thanh, hương, …, được hiện lượng tức tri giác đơn thuần thấy biết ngay trong sát na hiện tại và loại ẩn pháp (paroksa), tùy thuộc tỷ lượng, một tiến trình so sánh loại suy để do những dấu hiệu được thấy biết mà suy ra những sự kiện không hiện tiền. Sự phân loại kiểu này không để lọt bất cứ một pháp nào ra ngoài hai loại đó. Bất kỳ pháp nào nếu không hiện thời ẩn hay ngược lại. Tánh Không theo Tsong-ka-pa là một pháp như mọi pháp khác và cố nhiên thuộc loại ẩn pháp. Giả như Tánh Không là hiện pháp thời ai ai cũng thấy biết ngay được. Trong thực tế, đâu có trường hợp như vậy xảy ra. Tri thức thường nghiệm không thể nào trực nhận Tánh Không. Cách độc nhất tìm đến Tánh Không trong giai đoạn đầu của đạo lộ là sử dụng tập quán suy tư và nhận thức thông tục.

Kinh nói: “Vì có danh nên có thủ trước. Vì có tướng nên có thủ trước”. Gọi tên và nhận ra tướng dạng là tác dụng của tư duy phân biệt. Chấp trước và cố chấp thường đi đôi với tư duy phân biệt. Tư duy phân biệt thật ra vô hại, nhưng khi nó đi đôi với chấp trước và cố chấp thời sinh ra vọng tưởng hý luận gây nguy hại rất lớn. Theo quan điểm Trung quán, thay vì tư duy phân biệt, vọng tưởng hý luận mới là đối tượng phủ định. Vọng tưởng ở đây được hiểu theo nghĩa nói đến trong Ð?i thừa nghĩa chương: “Kẻ phàm phu mê tối đối với sự thật bèn khởi ra các tướng của các pháp, chấp lấy tướng mà cho ra danh, y theo danh mà giữ lấy tướng, bởi chỗ giữ lấy chẳng chân thật, nên kêu là vọng tưởng”. Ngài Nguyệt Xứng giải thích thêm vọng tưởng là “cái sự tô lên một ý nghĩa sai lầm rằng có tự tính”. Như vậy, phủ định vọng tưởng hý luận tức là phủ định sự hữu-có-tự-tính mà vọng tâm lầm tưởng là chân thực. Bồ đề tâm luận chỉ rõ lý do tại sao phải đoạn tận mọi vọng tưởng hý luận: “Cái pháp của đường mê là từ nơi vọng tưởng mà sanh ra, nó lần lượt nảy nở ra cho đến thành vô lượng, vô biên các phiền não”.

Vì Bát Nhã TK là gồm thâu summary lại tất cả đạo Phật qua các thời kỳ nên ta hiểu nó từ Nguyên thuỷ đến Đại thừa, từ vô ngã vô thường và khổ đến Tánh Không rồi Duy thức chân không diệu hữu của Tâm, có người giải thích là chữ không là từ chối là quét sạch là pass vượt qua những chặng đường tu tập đi từ Nguyên thủy đến Đại thừa. Vì nó quá cô động 260 chữ nên sự quét sự pass này không được diễn tả bằng cách nào? và tại sao? Vì không có Ngã nên không có người chèo thuyền đi qua bờ bên kia và cũng không còn nghiệp báo, không có người nhận chịu quả báo, vì không có pháp nên không có bờ bên này và bờ bên kia nhị biên tương đối, vì không có chứng đắc mà luôn luôn là Như thị vì vạn pháp do Tâm của Duy thức nên mới có chân không diệu hữu. Đạo Phật cốt lõi là sự giải thoát, để thoát ra khỏi căn nhà lửa cháy đạo Phật có nhiều đường ra từ vô ngã vô thường khổ đến Tánh Không đến do Tâm biến hiện là huyễn ảo đến từ chối hết, diệt tận gốc cái gì bám víu cái gì chấp vào. Khi không còn không gian thời gian số lượng của ý thức, không còn quá khứ tương lai mà chỉ hiện tiền, không còn đối đãi của chủ thể và khách năng sở song vong nhị biên tương đối khi không còn cả cái Tánh Không nữa thì đó là điểm cuối cùng của đạo Phật giải thoát: gathe gathe paragathe parasamgathe Bodhi svaha !!

Kết luận: BNTK là nữa là kinh nữa là chú Mật tông. Vì nó gom tụ chỉ có 260 chữ nên cô động tương tự như chúng ta nói: tôi học ra bác sĩ thì tôi phải học kinh qua các môn học anatomy physiology histology microbiology pathology histology surgery … thì mới thành bác sĩ. Tất cả chỉ là tên của môn học chứ không phải chi tiếc từng môn học. BNTK cũng vậy chỉ nêu tên từng chặn đường mà Bồ tát phải tu tập đi qua bằng quán chiếu trải nghiệm như ngủ uẩn duyên khởi tứ diệu đế 12 nhân duyên,Thất bồ đề phần, Lục độ ba la mật đến vô chứng vô đắc sau cùng là thần chú mật tông. Suốt hết con đường đạo Phật từ Nguyên thủy đến Đại thừa Trung quán Duy thức. Nhưng chủ yếu của BNTK là nhắc nhở Bồ Tát tụ tập phải cho chín mùi đầy đủ mới đạt được tuệ giác Bát Nhã nên gọi là Bát nhã ba la mật. Trí tuệ Bát nhã là viên mãn thành tựu nên là mẹ của chư Phật và Bồ Tát. Bát nhã là chính giác, tự hiển lộ nhận ra khuôn mặt chân thật cả hai là một, sở tri năng tri nhập thành một: tình trạng thiền chấp chấm dứt tình trạng đồng nhất không phân biệt gọi là Chính giác hay Nhất thiết trí. Đầu tiên Bát nhã phản đối là có phương tiện và cứu cánh chủ thể khách thể, cái này cái kia, cái thấy và cái bị thấy. Nhờ quán chiếu Bát Nhã tất cả nhập lại là một không còn tính nhị nguyên là Chính giác hiện hành trong Bát nhã và ngược lại Bát nhã hiện hành trong Chính giác là giác ngộ. Bát-nhã là soi thấy yếu tính của sự vật như thế là như thế (yathābhūtam); Bát-nhã soi thấy sự vật y theo bản tính Không của chúng; khi soi thấy sự vật như thế là đạt tới biên tế của thực tại, tức là vượt ra ngoài lãnh vực tri kiến của con người; và do đó, Bát-nhã nắm cái không thể nắm, đạt cái không thể đạt, hiểu cái không thể hiểu; khi lối diễn tả bằng trí năng về tác dụng của Bát-nhã ấy được diễn dịch thành những hạng từ tâm lý, nó là cái không dính mắc vào đâu, dù nó là một ý tưởng hay một cảm giác. Những ai khởi sự thực hành Bát-nhã phải thực hành tất cả sáu Ba-la-mật để hồi hướng công đức cho sự chứng đắc vô thượng chính giác. Tuy nhiên, khi hồi hướng như thế, đừng bao giờ chấp chặt (parāmṛṣṭā) vào nơi chính giác coi đó là mục tiêu cho các tu tập của mình, cũng đừng chấp trước năm uẩn (skandha) coi đó là những thực tại cá biệt bất khả hoại. Bởi vì Nhất thiết trí là cái vô thủ trước (aparāmṣṭā).“Vô thủ trước“ tức là “không bị dính mắc.” Bất khả đắc và Bất khả tư nghị là bản tính của Bát-nhã, Bồ-tát khi đã khôi phục được hoạt dụng nguyên thủy của nó, tự nhiên sẽ không chấp thủ dù là chấp thủ Bát-nhã, Nhất thiết trí hay Chính giác. Do đó, đương nhiên tri kiến như thực trong các kinh Bát-nhã có nghĩa là tri kiến xuyên qua bức màn trùng điệp phủ tối đôi mắt chúng ta, và rồi dùng trí Bát-nhã nắm lấy vạn hữu trong chân như của chúng. Chân như (tathatā) là một từ quá lạ, nhưng trong thuật ngữ Phật giáo, nó là một trong những từ ý vị nhất. Hiểu rõ nghĩa của nó là hiểu toàn bộ hệ thống tư tưởng của đạo Phật. Chân như là như như và đừng có hiểu lộn thành như nhau hay như một. Khi người ta nói đến “Vô dị tướng“, thì có thể tưởng rằng các dị tướng bị biến thành vô sở tri hay vô sở hữu, để bộc lộ cái tướng như một của chúng. Nhưng cái mà các hành giả Bát-nhã muốn nói là những cái được thấu hiểu trong những tương quan chân thực của chúng, không chỉ tương quan giữa cái này với cái kia mà tương quan với lý tính hiện hữu của chúng. Lập trường của Bát-nhã không nhất thiết phải phủ nhận cái được mệnh danh là hiện tượng giới; nó cho thế giới có quyền hạn khi thì sinh khi thì diệt, lúc có lúc không. Nhưng cùng lúc nó không quên xác nhận rằng những gì chúng ta thấy thành và hoại ở đây đều là những bóng mờ thoảng qua của sự thể đằng sau đó, thì ý nghĩa của những bóng mờ thoảng qua sẽ không bao giờ được nhận thực và được thẩm định đúng mức. Do đó, các nhà Đại thừa luôn luôn cẩn thận chi ly phân biệt “khả đắc” và “bất khả đắc“, nói như thuật ngữ, “khả đắc” nằm trong thế giới được thiết lập trên lưỡng nguyên này và “bất khả đắc” nằm trong một thế giới vượt lên trên. Bất cứ ở đâu có chỗ cho tương phản giữa có và không, ở đó có khả đắc tính, và do đó, có chấp thủ, vốn là địch thủ của giác ngộ và giải thoát. Phật nói: “Lành thay, Tu-bồ-đề. Đúng như lời ông nói. Tất cánh viễn ly là hết thảy các pháp – Bồ-tát, Bát-nhã ba-la-mật và Vô thượng chính đẳng bồ đề. Nhưng Bồ-tát ở trong pháp tất cánh viễn ly đó mà như thật biết rõ Bát-nhã ba-la-mật và đạt tới tri kiến rằng Bát-nhã ba-la-mật là tất cánh viễn ly cho nên Bát-nhã ba la mật tức phi Bát-nhã ba-la-mật. Quả thực Bồ-tát nhân Bát-nhã ba-la-mật mà chứng đắc Vô thượng chính đẳng bồ đề nhưng ở trong đó không pháp nào là khả thủ, là khả đắc; do không thủ, không đắc, nên Bồ-tát chứng đắc Vô thượng chính đẳng bồ đề mà không phải là do viễn ly chứng đắc viễn ly”: Kinh Kim cang.

Để kết luận bài viết này xin trích dẫn lời HT Viên Minh nói về Bát Nhã: Chính vì vậy mà giáo pháp của Đức Phật có chia ra làm 3 bậc: sơ thiện, trung thiện và hậu thiện.

          * Sơ thiện giúp cho người sơ cơ chưa thấy pháp có thể đoạn giảm điều ác, tăng trưởng điều lành để vơi bớt những phiền não khổ đau do vọng nghiệp gây nên.

          * Trung thiện giúp cho người đã thấy pháp (ngộ) có thể nhập lưu (bước vào dòng Thánh).

          * Hậu thiện giúp cho các bậc Thánh hữu học đạt đến vô học, tức là giác ngộ giải thoát hoàn toàn.

          Vậy nếu xét thấy mình còn sơ cơ thì đừng vội luận bàn lý Bát-nhã hay cố gắng thực hành tuệ quán Vipassanā, mà chỉ nên bố thí, phóng sanh, trai giới, gần gũi và học hỏi các bậc thiện trí thức, nghe pháp, tụng kinh, sám hối, cung kính, phục vụ v.v.. Lúc thân tâm tương đối ổn định, trong sáng hành giả có thể tu tập những bước sâu hơn như nhẫn nhục, nhu hoà, tinh tấn, thiền định, tứ vô lượng tâm hoặc trì chú, quán tưởng, niệm Phật, tham công án v.v.. Đến lúc nói năng, hành động, suy nghĩ đều có thể sáng suốt, định tĩnh, trong lành trong tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác, không bị che lấp bởi thế giới ý niệm của lý trí vọng thức nữa thì mới có thể thấy được lý Bát-nhã và hành được sự Vipassanà một cách chính xác. Sở dĩ chúng ta nói đến lý Bát-nhã và sự Vipassanà là để chúng ta không bị lạc đường vào tà đạo – lý luận cao siêu nhưng “cước căn bất điểm địa” – còn thực tế thì mỗi người phải tự khám phá, hoặc nhờ một vị thiện trí thức chỉ bày căn cơ trình độ của mình để hạ thủ công phu sao cho khế hợp, đừng với quá cao cũng đừng kẹt vào những pháp môn phương tiện mà Chư Tổ tạm thời vận dụng cho người sơ học. Chính vì không tự biết mình nên nhiều người chưa thấy lý, chỉ mới có đôi chút kiến giải, rồi chấp vào cái lý kiến giải đó, tự cho mình có căn cơ cao thượng, chỉ hành pháp cao siêu mà thực ra là đang tự đánh lừa mình trong thế giới vọng tưởng huyễn hoá. Lý là thấy ra cái thực và sự là sống tỉnh thức trọn vẹn với cái thực đó. Nhưng khi lý chỉ là sản phẩm kiến giải của tư tưởng thì sự chính là luân hồi sinh tử trong tam giới – lý này là hóa thân của vô minh, tà kiến, mà hoạt động cụ thể chính là Hành (chữ hành dùng trong ngũ uẩn và thập nhị nhân duyên), trung tâm tạo tác ra tam giới cũng như dựng lên ngôi nhà bản ngã. Do đó, cụ nói đúng, cái quan trọng là phải biết căn cơ trình độ thực của mình để tháo gở ngôi nhà bản ngã trong tam giới ấy.

Nam Mô Thích Ca mâu Ni Phật!!

Quý vị xem trọn các bài viết về Dòng sông tâm thức của Cư sĩ Phổ Tấn

Tham khảo: – Đọc và hiểu Bát Nhã Tâm kinh- Trịnh nguyên Phước- Người cư sĩ Paris

– Dẫn vào Tâm kinh Bát Nhã- Thiền sư Suzuki- HT Tuệ sỹ dịch-Thư viện Hoa sen

– Nói chuyện về Bát Nhã Tâm kinh- HT Thích Viên Minh-Thư viện Hoa sen.

5/5 - (3 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

 

Powered by petreviewz.com
DMCA.com Protection Status